Thông tin cơ bản thuốc Interferon beta 1a (thuốc tiêm bắp)
Điều kiện bảo quản
Phải bảo quản interferon beta - 1a (dạng bột để pha tiêm) ở nhiệt độ 2 - 8oC, trong tủ lạnh. Nếu không có tủ lạnh, có thể bảo quản ở 25oC trong vòng 30 ngày. Không được để ở nhiệt độ cao. Không để đông lạnh. Sau khi pha để tiêm, cần dùng ngay càng sớm càng tốt, trong vòng 6 giờ, bảo quản ở 2 - 8oC, không để đông lạnh.
Tác dụng thuốc Interferon beta 1a (thuốc tiêm bắp)
Chỉ định/Chống chỉ định
Chỉ định
Ðiều trị dạng tái phát của bệnh xơ cứng rải rác, để làm chậm tàn phế thêm và làm giảm số lần nặng lên của bệnh.
Chống chỉ định
- Quá mẫn với các loại interferon tự nhiên và tái tổ hợp; quá mẫn với albumin huyết thanh người hoặc các thành phần khác của chế phẩm.
- Phụ nữ có thai.
- Người bệnh trầm cảm nặng và/hoặc có ý định tự vẫn; người bệnh có tiền sử động kinh mà không thể điều trị và kiểm soát được một cách chặt chẽ.
Liều dùng và cách dùng
Interferon beta-1a tiêm bắp là dạng bột để pha tiêm, đi kèm dung dịch tiêm. Thuốc này được tiêm bắp, thường mỗi tuần một lần, vào cùng một ngày mỗi tuần. Tốt nhất là tiêm thuốc vào cùng khoảng thời gian trong ngày vào các ngày tiêm của bạn, thường là vào cuối buổi chiều hoặc buổi tối. Thực hiện theo các hướng dẫn trên nhãn thuốc của bạn một cách cẩn thận, và hãy hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn để giải thích bất kỳ phần nào bạn không hiểu. Sử dụng interferon beta-1a đúng theo chỉ dẫn.
Tiếp tục sử dụng interferon beta-1a ngay cả khi bạn cảm thấy tốt. Không được ngưng dùng interferon beta-1a mà không nói chuyện với bác sĩ của bạn.
Thận trọng
Chưa có thông báo nào về điều trị interferon cho người bệnh dưới 16 tuổi, vì vậy không được dùng interferon beta cho trẻ em. Cũng cần thấy rằng kinh nghiệm điều trị bằng interferon beta dài ngày vẫn còn chưa nhiều, vì vậy điều đặc biệt quan trọng là phải theo dõi chặt chẽ người bệnh để đề phòng những phản ứng không mong muốn.
Ðiều quan trọng là phải thông báo cho người bệnh về các tác dụng phụ trong khi điều trị, kể cả các triệu chứng giả cúm. Các triệu chứng này thường rõ nhất khi bắt đầu điều trị và giảm dần trong quá trình điều trị.
Người có tiền sử bệnh thần kinh, đặc biệt là có co giật và bệnh động kinh, thì cần phải theo dõi rất chặt chẽ và có thể cần phải có biện pháp điều trị để điều chỉnh cho được bệnh động kinh trong thời gian thực hiện điều trị bằng interferon.
Ðã có tài liệu nói rằng interferon có thể thúc đẩy trầm cảm và thậm chí cả ý định tự tử ở người bệnh có xu hướng phát triển trầm cảm. Nguy cơ này cũng thường tăng lên trong số các người bị bệnh xơ cứng rải rác. Bác sỹ điều trị phải khám xét cẩn thận triệu chứng trầm cảm, nếu có thì phải điều trị một cách thích hợp, kể cả việc ngừng sử dụng interferon.
Người bệnh suy giảm nặng chức năng thận và/hoặc gan và người bệnh có tiền sử suy tủy cần được chú ý đặc biệt về liều lượng và các nguy cơ tác dụng phụ trong quá trình điều trị.
Người bệnh có bệnh tim mạch như cơn đau thắt ngực, suy tim mạn hoặc loạn nhịp tim phải được theo dõi chặt chẽ chức năng tim, vì có thể có nguy cơ làm các bệnh đó nặng lên trong thời gian sử dụng interferon beta. Bản thân hội chứng giả cúm có thể làm tăng và làm trầm trọng các triệu chứng ở người bệnh có tiền sử bệnh tim.
Người bệnh tạo kháng thể chống lại interferon, bởi vậy (kháng thể trung hòa), ở một số người bệnh được điều trị hoạt lực của interferon beta có thể bị giảm. Các kháng thể trung hòa làm giảm hoạt lực sinh học của interferon beta. Có nguy cơ kháng thể trung hòa đạt mức cao không đổi (hình cao nguyên) sau 12 tháng điều trị. Các tài liệu theo dõi người bệnh điều trị được 2 năm cho thấy khoảng 8% các người bệnh có xuất hiện kháng thể trung hòa.
Tương tác với các thuốc khác
Với interferon beta, chưa có những đánh giá một cách hệ thống về các tương tác thuốc. Những nhận xét sơ bộ về tương tác giữa interferon beta với corticosteroid hoặc ACTH vẫn còn chưa được đánh giá một cách hệ thống. Các nhận xét lâm sàng chỉ ra rằng có thể điều trị người bệnh bị xơ cứng rải rác bằng interferon beta phối hợp với corticosteroid hoặc ACTH trong thời kỳ bệnh tăng nặng. Phải thấy rằng interferon có thể làm giảm nồng độ và hoạt tính của enzym gan chuyển hóa thuốc cytochrom P450. Bởi vậy cần đặc biệt thận trọng khi dùng interferon phối hợp với các thuốc có cửa sổ điều trị hẹp và sự thải trừ các thuốc đó phụ thuộc vào hoạt tính của enzym gan cytochrom P450. Ðiều thận trọng này liên quan đến nhiều thuốc chống động kinh và chống trầm cảm.
Tác dụng phụ
Trầm cảm và tự vẫn đã được thông báo như là những tác dụng không mong muốn, đó là lý do để phải hết sức thận trọng đối với người có tiền sử bị trầm cảm.
Các phản ứng phụ phổ biến nhất khi điều trị bằng interferon là hội chứng giả cúm bao gồm đau cơ, sốt, ớn lạnh, mệt mỏi, đau đầu và buồn nôn. Các triệu chứng này hầu như rất hay gặp ở giai đoạn đầu điều trị và giảm dần trong thời gian điều trị.
- Thường gặp: Chung: Ðau đầu, hội chứng giả cúm, sốt, ớn lạnh, suy nhược, đau cơ, chóng mặt; Thần kinh trung ương: Khó ngủ, trầm cảm; Tiêu hóa: ỉa chảy
- Ít gặp: Chung: Chán ăn, phản ứng quá mẫn; Tuần hoàn: Giãn mạch, đánh trống ngực, bệnh cơ tim và suy tim mạn; Thần kinh trung ương: Kích động, co giật; Nội tiết: Băng huyết và/hoặc đa kinh; Tiêu hóa: Buồn nôn, nôn; Da: Phát ban, phản ứng tại chỗ tiêm, rụng tóc. Cơ - xương: Ðau khớp.
- Hiếm gặp: Chung: Phản ứng dị ứng nghiêm trọng, kể cả phản vệ.Người bệnh có thể có cảm giác như ngất ngay sau mũi tiêm interferon beta đầu tiên. Phản ứng này thường có tính đơn lẻ một lần, hiếm xảy ra lại ở những mũi tiêm sau. Hiếm khi có các cơn co giật và co cứng (chuột rút). Loạn nhịp cũng là một chứng hiếm gặp và thường xảy ra ở người bệnh có tố bẩm sinh. Bởi vậy vấn đề quan trọng là khai thác cho đúng tiền sử bệnh tật của mỗi người bệnh trước khi bắt đầu điều trị.Có thể xảy ra sớm, trong quá trình điều trị, những cơn co cứng thoáng qua và/hoặc yếu cơ nghiêm trọng, thậm chí có thể làm hạn chế vận động. Những đợt co cứng này ngắn, liên quan nhất thời với tiêm thuốc và có thể tái phát khi tiêm thuốc lại. Cũng có một vài kết quả xét nghiệm bất thường, nhưng thường không phải là lý do để cần đến can thiệp/điều trị tích cực nào. Số lượng tế bào lymphô, tiểu cầu, bạch cầu trung tính và hồng cầu bị giảm; cũng như có sự tăng nồng độ creatinin huyết thanh, kali huyết thanh, urat huyết thanh và nồng độ transaminase. Cũng có thể tăng calci niệu thoáng qua.
Dược động học/Dược lực
Dược động học
Dược động học và độ khả dụng sau khi tiêm bắp và dưới da khác nhau giữa các loại thuốc. Sau khi tiêm bắp interferon beta - 1a, nồng độ cực đại (được xác định bằng hoạt tính chống virus in - vitro tối ưu) đạt được trong khoảng 5 - 15 giờ sau dùng thuốc. Rồi hoạt tính giảm dần, với nửa đời khoảng 10 giờ. Sinh khả dụng khi tiêm bắp cao gấp 3 lần sinh khả dụng khi tiêm dưới da. Interferon beta - 1a không được tiêm dưới da. Ðiều này ngược với các loại và dạng khác của interferon. Bởi vậy cần phải đọc rất cẩn thận tờ hướng dẫn thuốc đóng kèm trong hộp thuốc. Sau khi tiêm dưới da một lần hoặc nhiều lần liều 0,5 mg/ngày interferon beta - 1b cho người tình nguyện khoẻ mạnh, nồng độinterferon beta - 1b trong huyết thanh thường dưới 100 đvqt/ml. Nồng độ đỉnh interferon beta - 1b trong huyết thanh đạt được trong khoảng 1 đến 8 giờ, với nồng độ đỉnh trung bình của interferon là 40 đvqt/ml.
Dược lực
Interferon là một họ protein có trong tự nhiên, trọng lượng phân tử khoảng từ 15.000 đến 21.000 dalton. Ðã xác định được ba nhóm interferon chính, alpha, beta và gamma. Interferon beta được tạo ra bởi nhiều loại tế bào khác nhau, như nguyên bào sợi và đại thực bào. Interferon beta - 1a và interferon - 1b được sản xuất bằng công nghệ tái tổ hợp DNA. Trình tự acid amin của interferon beta - 1a giống như của interferon beta tự nhiên của người. Interferon beta - 1b không có mạch nhánh carbohydrat thấy trong interferon tự nhiên. Interferon beta được sử dụng cho người bệnh xơ cứng rải rác thuyên giảm, có tái phát (đặc điểm là có ít nhất hai cơn rối loạn thần kinh trong vòng hai năm trước đó kèm theo phục hồi hoàn toàn hoặc không hoàn toàn) mà vẫn có thể đi lại không cần giúp đỡ. Thuốc được chỉ định để giảm tần số và mức độ nặng của các lần tái phát lâm sàng. Interferon beta thể hiện tác dụng sinh học bằng cách gắn vào những thụ thể đặc hiệu trên bề mặt của các tế bào người. Sự gắn kết này khởi động cho một loạt sự kiện phức tạp trong tế bào dẫn đến thể hiện nhiều sản phẩm gen và chất chỉ thị do interferon gây nên. Những chất này được coi là những chất trung gian của các tác dụng sinh học của interferon beta. Cơ chế tác dụng của interferon beta trong bệnh xơ cứng rải rác chưa được biết rõ.
Quá liều và cách xử trí
Chưa có tài liệu nào nói về quá liều. Chỉ có lời khuyên là khi quá liều cần điều trị hỗ trợ, dựa vào triệu chứng.
Khác
Cách xử trí
Hội chứng giả cúm hầu hết xảy ra vào thời điểm bắt đầu điều trị, và chủ yếu đáp ứng với paracetamol. Sốt thường hết trong vòng 12 giờ. Có thể làm giảm sốt bằng cách điều trị trước với thuốc hạ sốt.
Tỷ lệ phản ứng tại chỗ tiêm, phức hợp triệu chứng giả cúm thường giảm theo thời gian.
Nếu phản ứng quá mẫn nặng xảy ra, phải ngừng thuốc interferon và thực hiện các điều trị thích hợp.
Những người bệnh bị trầm cảm và có ý định tự tử phải được theo dõi rất chặt chẽ, nên cân nhắc để ngừng sử dụng liệu pháp.
Nếu số lượng tuyệt đối bạch cầu trung tính thấp hơn 750/mm3 thì nên ngừng điều trị bằng interferon beta. Khi trị số của bạch cầu trở lại > 750/mm3 thì có thể dùng lại, nhưng với liều giảm 50%.
Ðể làm giảm bớt các tác dụng không mong muốn từ vừa đến nặng khác, có thể phải thay đổi phác đồ liều lượng của interferon beta hoặc thậm chí phải chấm dứt sử dụng thuốc này.
NẾU QUÊN UỐNG THUỐC
Dùng liều đó ngay khi nhớ ra. Tuy nhiên, khi bỏ quên liều mà đã gần tới thời gian tiêm liều tiếp theo bạn có thể bỏ qua liều đã quên và tiếp tục lịch trình dùng thuốc của bạn. Không dùng liều gấp đôi để bù cho liều bỏ lỡ.
Các liều tiêm nên cách nhau ít nhất 48 tiếng
CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG
Trừ khi bác sĩ yêu cầu bạn thay đổi chế độ dinh dưỡng, bạn có thể ăn uống bình thường.