Globulin miễn dịch của người dạng tiêm bắp - Tác dụng thuốc và các thông tin khác đầy đủ nhất
Tra cứu thuốc chuẩn nhất

Globulin miễn dịch của người dạng tiêm bắp

Thông tin cơ bản thuốc Globulin miễn dịch của người dạng tiêm bắp

Dạng bào chế

Thuốc tiêm

Dạng thuốc và hàm lượng

  • Globulin miễn dịch tiêm bắp là dung dịch vô khuẩn, không chứa chí nhiệt tố, gồm các globulin chứa nhiều loại kháng thể, có mặt bình thường trong máu người trưởng thành.
  • Chế phẩm globulin miễn dịch có trên thị trường dùng tiêm bắp được gọi là immune globulin IM (IGIM).
  • IGIM chứa 15 - 18% protein, trong đó immunoglobulin G (IgG, gamma globulin) chiếm không dưới 90%. IGIM là dung dịch trong suốt hoặc hơi đục, hầu như không mùi và không màu hoặc có thể có màu nâu nhạt do sự có mặt của hemoglobin biến tính. IGIM được điều chỉnh tới pH 6,4 - 7,2 bằng natri carbonat, natri bicarbonat, và/hoặc đệm natri acetat acid acetic. IGIM cũng còn chứa glycin như một tác nhân ổn định và thimerosal là chất bảo quản (0,3 M glycin và 100 microgam/ml thimerosal).

Điều kiện bảo quản

IGIM cần được bảo quản ở nhiệt độ lạnh từ 2 - 8oC và không được để đông băng. Thời hạn dùng của IGIM không được quá 3 năm kể từ ngày xuất khỏi kho lạnh (5oC) của nhà sản xuất.

Chỉ định/Chống chỉ định

Chỉ định

Globulin miễn dịch tiêm bắp (IGIM) được dùng để tạo miễn dịch thụ động cho những đối tượng nhạy cảm bị phơi nhiễm đối với một số bệnh nhiễm khuẩn khi chưa có sẵn vaccin để gây miễn dịch chủ động đối với các bệnh đó, hoặc khi người dễ mắc bệnh bị dị ứng đối với một thành phần nào đó trong vaccin, hoặc khi không có đủ thời gian để kích thích hình thành kháng thể tạo miễn dịch chủ động cho đối tượng. Còn dùng IGIM để điều trị thay thế trong suy giảm khả năng sinh tổng hợp kháng thể.

Ðối với nhiễm virus viêm gan A IGIM được dùng để tạo miễn dịch thụ động cho người dễ mắc bị phơi nhiễm với virus viêm gan A. Trước đây, cách lựa chọn duy nhất để phòng virus viêm gan A cho những trường hợp trước hoặc sau phơi nhiễm là gây miễn dịch thụ động bằng globulin miễn dịch. Mặc dầu globulin miễn dịch vẫn còn là một tác nhân lựa chọn để phòng bệnh sau phơi nhiễm nhằm bảo vệ ngắn hạn sau phơi nhiễm với virus viêm gan A, nhưng việc gây miễn dịch chủ động bằng vaccin virus viêm gan A loại bất hoạt tạo ra kết quả bảo vệ lâu dài hơn, do đó đã được khuyến cáo dùng cho những người có nguy cơ cao để phòng bệnh trước phơi nhiễm. Việc phối hợp tạo miễn dịch thụ động bằng IGIM cùng với tạo miễn dịch chủ động bằng vaccin bất hoạt có thể được dùng cho những người mới bị phơi nhiễm với virus viêm gan A nhằm mục đích bảo vệ lâu dài.

Ðối với bệnh sởi

IGIM được dùng để phòng bệnh hoặc làm thay đổi các triệu chứng của bệnh sởi cho những đối tượng dễ mắc bị phơi nhiễm với tác nhân gây bệnh trước đó dưới 6 ngày. Có thể dùng IGIM để phòng bệnh cho trẻ em chưa được miễn dịch (hay người lớn chưa có miễn dịch, tức là chưa có kháng thể chống sởi); dùng IGIM càng sớm càng tốt sau khi có tiếp xúc với người bị sởi. Cũng dùng IGIM cho trẻ em dưới 12 tháng tuổi mới mắc bệnh nặng với mục đích phòng tránh bệnh sởi; sau đó dùng vaccin virus sởi, quai bị, rubella (MMR) sống (ít nhất sau 3 tháng), ở lứa tuổi thường dùng.

Miễn dịch thụ động đối với sởi sau khi tiêm IGIM thường tồn tại khoảng 3 - 4 tuần lễ, còn miễn dịch chủ động bằng vaccin virus sởi sống cần được bắt đầu 3 tháng sau khi tiêm IGIM, miễn là trẻ ít nhất được 15 tháng tuổi và không có chống chỉ định dùng vaccin. Không dùng IGIM đồng thời với vaccin virus sởi sống.

Ðối với bệnh rubella

Mặc dù các biểu hiện lâm sàng của rubella ở người mang thai có giảm thiểu do được gây miễn dịch thụ động sau phơi nhiễm bằng globulin miễn dịch, cách tiếp cận này có thể không ngăn ngừa được nhiễm virus trong máu người mẹ, nhiễm virus ở thai, và hội chứng rubella bẩm sinh (với những dấu hiệu kinh điển như đục thủy tinh thể, bệnh tim, điếc hoặc các khuyết tật khác). Vì vậy, globulin miễn dịch chỉ được khuyến cáo dùng cho những phụ nữ mắc rubella trong khi mang thai mà không muốn phá thai trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Ðối với các bệnh suy giảm miễn dịch tiên phát

IGIM được dùng như liệu pháp thay thế trong điều trị dự phòng nhiễm khuẩn cho những người bị mắc các bệnh thiếu hụt IgG và các kháng thể khác (như không có gamma globulin huyết, giảm gamma globulin huyết, rối loạn gamma globulin huyết). IGIM không nên dùng cho những đối tượng thiếu hụt IgA chọn lọc.

IGIM có thể phòng các bệnh nhiễm khuẩn nặng cho những người mắc các bệnh suy giảm globulin miễn dịch nếu như hàm lượng IgG trong huyết thanh có thể duy trì ở mức trên 200 mg/dL. IGIM không có tác dụng phòng các nhiễm khuẩn mạn tính ở các mô ngoại tiết như đường hô hấp và tiêu hóa. Ðiều trị dự phòng bằng IGIM, đặc biệt là nhằm chống lại các nhiễm khuẩn do các vi khuẩn có vỏ (nang hóa) gây ra, thường có hiệu quả trong bệnh không có gamma globulin huyết bẩm sinh liên quan đến giới tính typ Bruton, không có gamma globulin huyết liên quan đến u tuyến ức, và không có gamma globulin huyết dạng mắc phải.

Các sử dụng khác
Không được dùng IGIM một cách thường quy để dự phòng hoặc điều trị quai bị hoặc bệnh bại liệt. IGIM đã được dùng để phòng nhiễm khuẩn cho người bệnh bị bỏng và để điều trị bệnh hen hoặc các bệnh dị ứng; tuy nhiên, hiệu quả của IGIM trong các trường hợp này còn chưa được xác định, và do đó việc dùng IGIM cho các mục đích nói trên hiện không được khuyến nghị.

Chống chỉ định

  • Chống chỉ định dùng IGIM cho người đã có các phản ứng phản vệ hoặc phản ứng toàn thân nặng đối với globulin miễn dịch hay với bất kỳ thành phần nào có trong chế phẩm. Cần sẵn có adrenalin để xử trí ngay phản ứng phản vệ nếu xảy ra.
  • Chống chỉ định IGIM cho những người bị thiếu hụt IgA chọn lọc, vì những người này có thể có kháng thể kháng IgA và phản ứng phản vệ có thể xảy ra sau khi tiêm IGIM hoặc các sản phẩm khác được điều chế từ máu có chứa IgA.

Liều dùng và cách dùng

Pha chế và tiêm
Globulin miễn dịch tiêm bắp (IGIM) không được tiêm dưới da, trong da hoặc tiêm tĩnh mạch. Mặc dầu IGIM đã từng được tiêm truyền dưới da với tốc độ chậm để điều trị thay thế ở những người bị các bệnh thiếu hụt IgG hoặc các kháng thể khác, cần có những nghiên cứu tiếp theo để đánh giá độ an toàn và hiệu quả của cách tiêm này.

Ở người lớn và trẻ em, tiêm IGIM vào bắp thịt tốt nhất là vùng cơ đelta hoặc vào mặt trước - bên của đùi. Vì nguy cơ tổn thương các dây thần kinh tọa, do đó chỉ tiêm mông khi cần, tiêm một khối lượng lớn cho người trưởng thành hoặc khi cần chia thuốc ra thành nhiều liều nhỏ để tiêm ở nhiều vị trí. Ðối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, tốt hơn hết là nên tiêm IGIM vào mặt trước bên của đùi.

Khi liều tiêm IGIM lớn hơn 10 ml thì cần phải chia ra thành nhiều liều nhỏ để tiêm vào nhiều vị trí bắp thịt khác nhau nhằm làm giảm đau tại chỗ và bớt khó chịu. Tổng liều một lần tiêm bắp thịt không được vượt quá 20 ml (ngay cả đối với người lớn).

Trước khi tiêm cần kiểm tra bằng mắt để phát hiện các hạt nhỏ và sự đổi màu của dung dịch thuốc. Cần rút nhẹ piston của bơm tiêm ra một chút để đảm bảo rằng kim tiêm không xuyên vào mạch máu. Nếu có máu hay bất cứ sự đổi màu bất thường nào xuất hiện trong bơm tiêm thì nên rút kim tiêm ra và hủy bỏ bơm tiêm đó. Một liều mới của IGIM được tiêm vào một vị trí khác, dùng một bơm tiêm và kim tiêm mới. Ðể đề phòng việc lây truyền virus viêm gan và các tác nhân nhiễm khuẩn khác từ người này sang người khác, mỗi người được tiêm IGIM cần được dùng cho riêng mình một bơm tiêm và kim tiêm vô khuẩn.

Liều lượng
Trường hợp nhiễm virus viêm gan A
Liều thông thường của IGIM với mục đích phòng bệnh sau phơi nhiễm cho những đối tượng phơi nhiễm với virus viêm gan A là 0,02 ml/kg, liều duy nhất được tiêm càng sớm càng tốt sau khi bị phơi nhiễm. Sau khi đã bị phơi nhiễm trên 2 tuần lễ thì không nên dùng IGIM. Nếu kết hợp cả việc tạo miễn dịch chủ động và thụ động để phòng bệnh sau phơi nhiễm, nhằm đảm bảo có miễn dịch bảo vệ lâu dài, thì liều đầu tiên vaccin virus viêm gan A loại bất hoạt có thể tiêm đồng thời với IGIM nhưng ở vị trí tiêm khác và dùng bơm kim tiêm khác. Khi dùng IGIM với mục đích phòng bệnh trước phơi nhiễm cho những du khách đi đến những vùng có nguy cơ cao lây nhiễm virus viêm gan A, nếu thời gian phơi nhiễm dưới 3 tháng thì dùng một liều duy nhất IGIM là 0,02 ml/kg, nếu thời gian phơi nhiễm là 3 tháng hoặc lâu hơn, liều thông thường là 0,06 ml/kg, cứ 4 - 6 tháng tiêm một lần.

Trường hợp sởi
Liều IGIM thông thường với mục đích phòng bệnh sau phơi nhiễm đối với bệnh sởi cho những đối tượng dễ mắc là 0,25 ml/kg (liều tối đa là 15 ml), liều duy nhất tiêm trong vòng 6 ngày sau khi phơi nhiễm; sau đó gây miễn dịch chủ động bằng vaccin virus sởi sống cần được bắt đầu 3 tháng sau khi tiêm IGIM cho những đối tượng đã 15 tháng tuổi trở lên, trừ khi chống chỉ định dùng vaccin. Nếu người bị phơi nhiễm đó có tiền sử rõ rệt hoặc nghi ngờ là bị bệnh bạch cầu, u limphô, các u ác tính đã phát triển toàn thân hoặc một bệnh suy giảm miễn dịch hay đang được điều trị bằng các thuốc corticoid hay các thuốc ức chế miễn dịch (thí dụ các thuốc kháng chuyển hóa, các thuốc alkyl hóa, xạ trị), thì liều IGIM thường dùng để phòng sau phơi nhiễm bệnh sởi là 0,5 ml/kg (liều tối đa là 15 ml), tiêm liều duy nhất. Những người dùng IGIM với mục đích điều trị thay thế thì không cần phòng bệnh sởi bổ sung bằng IGIM, nếu như bị phơi nhiễm sởi.

Trường hợp rubella
Liều IGIM thường dùng để dự phòng sau phơi nhiễm với rubella cho những người mang thai đã tiếp xúc với bệnh mà không muốn phá thai trị bệnh là 0,55 ml/kg, tiêm liều duy nhất.

Các bệnh suy giảm miễn dịch
Bằng biện pháp thay thế để dự phòng nhiễm khuẩn cho những người bị các bệnh thiếu hụt IgG và các kháng thể khác, liều IGIM khởi đầu là 1,2 ml/kg. Sau đó dùng liều duy trì 0,6 ml/kg (ít nhất là 100 mg/kg) cách 2 - 4 tuần tiêm 1 lần; một vài người có thể cần phải tiêm nhiều lần hơn (khoảng cách thời gian ngắn hơn). Liều duy nhất tối đa là 30 - 50 ml cho người lớn và 20 - 30 ml cho trẻ em và trẻ nhỏ.

Thận trọng

Cần dùng IGIM thật thận trọng cho người bị chứng giảm tiểu cầu nặng hoặc bất cứ một rối loạn đông máu nào, vì xuất huyết có thể xảy ra sau khi tiêm thuốc vào bắp thịt. Các dữ liệu dịch tễ học và xét nghiệm chỉ ra rằng, các chế phẩm IGIM hiện có không gây một nguy cơ nào lan truyền virus gây ra bệnh suy giảm miễn dịch ở người (HIV). Cùng với việc sàng lọc tất cả các mẫu máu của người cho để phát hiện kháng thể kháng HIV và loại bỏ tất cả những mẫu có phản ứng dương tính, quy trình sản xuất IGIM bao gồm các bước thanh lọc nhằm có được một hành lang an toàn cực kỳ cao để loại trừ mọi lây nhiễm.

Tương tác với các thuốc khác

Với vaccin virus viêm gan A

Có thể tiêm đồng thời vaccin virus viêm gan A loại bất hoạt với globulin miễn dịch, nhưng ở các vị trí tiêm khác nhau và dùng bơm kim tiêm khác biệt. Kháng thể kháng virus viêm gan A (anti HAV) thu được thụ động từ nguồn globulin miễn dịch có thể làm giảm đáp ứng miễn dịch chủ động do vaccin virus viêm gan A loại bất hoạt tạo ra. Tuy nhiên, do hiệu giá kháng thể kháng virus viêm gan A của vaccin nói chung lớn hơn nhiều so với các mức kháng thể được coi là có tác dụng bảo vệ, nên khả năng giảm tính miễn dịch chủ động vì sự có mặt của lượng kháng thể thụ động này không có ý nghĩa lâm sàng quan trọng.

Với các vaccin khác

Các kháng thể có trong globulin miễn dịch có thể ảnh hưởng tới đáp ứng miễn dịch của một vài loại vaccin virus sống (chẳng hạn như vaccin virus sởi sống, vaccin virus quai bị sống, vaccin virus rubella sống). Trước đây người ta cho rằng các vaccin virus sống này có thể tiêm sớm từ 6 tuần đến 3 tháng sau khi dùng các chế phẩm globulin miễn dịch; tuy nhiên, lời khuyên này dựa trên số liệu từ những người dùng các liều thấp globulin miễn dịch. Bằng chứng gần đây cho thấy các liều cao globulin miễn dịch có thể ức chế đáp ứng miễn dịch đối với vaccin sởi sống trong thời gian hơn 3 tháng. Thời gian ảnh hưởng đáp ứng miễn dịch của các vaccin sởi, quai bị, và/hoặc rubella chưa được xác định đầy đủ. Tuy nhiên, dựa trên các số liệu thu được có thể đánh giá được nửa đời sinh học của lượng kháng thể thụ động thu được là vào khoảng 30 ngày, nên đã có những khuyến cáo sau đây:

Việc tiêm các loại vaccin chứa virus sởi sống cần được hoãn ít nhất là 3 tháng sau khi tiêm IGIM với mục đích phòng virus viêm gan A trước và sau phơi nhiễm; hoãn ít nhất 5 tháng sau khi tiêm IGIM để phòng bệnh sởi cho những người có tình trạng miễn dịch bình thường; hoãn ít nhất 6 tháng sau khi tiêm IGIM để phòng bệnh sởi cho những người bị suy giảm miễn dịch. Nếu xét cần phải sử dụng đồng thời một vaccin chứa virus sởi sống và globulin miễn dịch (do sắp phơi nhiễm với bệnh), thì cần tính đến sự giảm năng lực miễn dịch của vaccin. Vaccin virus sống cần được tiêm ở một vị trí khác biệt, cách xa vị trí tiêm globulin miễn dịch và một liều vaccin bổ sung cần được tiêm sau một thời gian xác định, trừ khi có bằng chứng huyết thanh học là đã có đáp ứng kháng thể đầy đủ với vaccin sống. Việc tái chủng, có thể là cần thiết, cho những người đã được tiêm globulin miễn dịch một thời gian ngắn sau khi dùng một loại vaccin chứa virus sởi sống cũng cần được tính đến. Nhìn chung, sự sao chép của virus trong vaccin và sự kích thích miễn dịch xảy ra trong vòng 7 - 14 ngày sau khi tiêm vaccin virus sống. Bởi vậy, nếu như khoảng cách giữa lần tiêm một vaccin virus sởi, quai bị, và/hoặc rubella và tiếp sau đó là tiêm globulin miễn dịch dưới 14 ngày thì một liều vaccin bổ sung cần được thực hiện sau một thời khoảng thích hợp được quy định từ trước, trừ phi thử nghiệm huyết thanh học cho thấy đã có đáp ứng miễn dịch đầy đủ với vaccin. Nhìn chung, không cần thiết một liều vaccin bổ sung nếu như thời khoảng giữa các lần tiêm vaccin và globulin miễn dịch vượt quá 2 tuần lễ.

Globulin miễn dịch hình như không ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch đối với vaccin virus bại liệt sống uống (OPV), vaccin sốt vàng, vaccin thương hàn uống (Ty21a).

Globulin miễn dịch hình như không ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch ở trẻ em, đối với vaccin bạch hầu - uốn ván - ho gà hấp phụ (DTP).

Tác dụng phụ

Ðau, nhậy cảm đau và căng cứng cơ có thể xảy ra tại vị trí tiêm bắp và tồn tại một số giờ sau khi tiêm IGIM. Viêm tại chỗ, nổi mày đay và phù mạch đôi khi xảy ra; nhức đầu, khó chịu và hội chứng thận hư cũng đã được thông báo.

Các lần tiêm nhắc lại IGIM, đặc biệt là ở những người dị ứng có thể gây mẫn cảm thường biểu hiện như sốt, ớn lạnh và đổ mồ hôi. Các phản ứng tại chỗ và toàn thân nặng, kể cả sốc phản vệ ở người bệnh tăng mẫn cảm đối với IGIM cũng đã được thông báo. Nếu vô ý tiêm IGIM vào tĩnh mạch có thể dẫn đến những phản ứng tăng mẫn cảm nghiêm trọng. Các phản ứng toàn thân và sốc phản vệ sau khi tiêm IGIM có thể là do tạo thành các kết tụ IgG và gây ra sự hoạt hóa bổ thể.

Dược động học/Dược lực

Dược động học

Dược lực

IGIM được dùng để tạo miễn dịch thụ động nhờ sự gia tăng hiệu giá kháng thể và khả năng phản ứng kháng nguyên - kháng thể. Các kháng thể IgG có trong IGIM có tác dụng phòng bệnh hoặc làm thay đổi một số bệnh nhiễm khuẩn ở những người dễ mắc.

Sau khi tiêm bắp IGIM, nồng độ IgG huyết thanh đạt đỉnh trong vòng 2 ngày. IgG có trong IGIM được phân bố nhanh và ngang nhau giữa các khu vực trong và ngoài mạch máu. Nửa đời của IgG ở những người có hàm lượng IgG bình thường khoảng 23 ngày.